Tình hình Kinh tế - Xã hội Quý I năm 2024: Khởi sắc nhưng không thiếu thách thức
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng trưởng của quý I các năm 2020-2023.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, căng thẳng địa chính trị leo thang, Việt Nam vẫn ghi nhận những tín hiệu kinh tế khả quan trong quý I/2024. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng trưởng của quý I các năm 2020-2023. Đóng góp vào mức tăng trưởng này có sự phục hồi và phát triển của các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, nông lâm thủy sản.
Nền kinh tế thế giới đương đầu với bất ổn địa chính trị
Trong ba tháng đầu năm 2024, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức. Xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine diễn biến phức tạp, xung đột tại khu vực Dải Gaza leo thang, các cuộc tấn công hoạt động vận tải qua Biển Đỏ đã ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng toàn cầu. Bên cạnh đó, thiên tai, hạn hán, biến đổi khí hậu khiến nguy cơ về an ninh năng lượng, an ninh lương thực và an ninh mạng gia tăng.
Lạm phát mặc dù đã hạ nhiệt nhưng vẫn cao hơn mục tiêu đề ra. Nhiều nền kinh tế lớn tiếp tục áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, duy trì lãi suất cao. Điều này khiến hoạt động thương mại, tiêu dùng và đầu tư toàn cầu phục hồi chậm chạp. Các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2024 sẽ thấp hơn mức tăng trưởng của năm 2023 từ 0,2 đến 0,3 điểm phần trăm.
GDP quý I/2024 tăng trưởng khả quan
Trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều khó khăn, Việt Nam vẫn ghi nhận mức tăng trưởng GDP quý I/2024 ấn tượng ở mức 5,66% so với cùng kỳ năm trước. Con số này cao hơn tốc độ tăng của quý I các năm 2020-2023. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,98%, đóng góp 6,09% vào tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,28%, đóng góp tới 41,68%. Khu vực dịch vụ cũng ghi nhận mức tăng trưởng 6,12%, đóng góp 52,23%.
Trong cơ cấu nền kinh tế quý I/2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,77%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35,73%; khu vực dịch vụ chiếm 43,48%. Tiêu dùng cuối cùng tăng 4,93%, đóng góp 56,77% vào tốc độ tăng chung. Tích lũy tài sản tăng 4,69%, đóng góp 24,07%. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 18%, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 17,08%.
Sản xuất nông lâm thủy sản phục hồi đà tăng trưởng
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục đà tăng trưởng tích cực trong quý đầu năm 2024. Sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu và nuôi trồng thủy sản tăng trưởng khả quan.
Trong lĩnh vực thủy sản, sản lượng tháng 3/2024 ước đạt 725,4 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng cá đạt 539,7 nghìn tấn (tăng 2,2%), tôm đạt 73,6 nghìn tấn (tăng 3,7%). Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 3 đạt 400,3 nghìn tấn, tăng 3,9% nhờ nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tăng.
Sản lượng cá tra quý I/2024 tăng 3,4% nhờ giá cá tra nguyên liệu cao hơn và triển vọng xuất khẩu tích cực tại hai thị trường lớn là Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Các mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh và bán thâm canh phát triển mạnh mang lại hiệu quả kinh tế cao, đẩy sản lượng tôm thẻ chân trắng tăng 5% so với cùng kỳ năm trước. Thủy sản khai thác tăng nhờ thời tiết thuận lợi, nguồn lợi phong phú.
Tính chung quý I/2024, sản lượng thủy sản ước tính đạt 1.941,5 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó sản lượng cá tăng 2%, tôm tăng 3,9%, các loại thủy sản khác tăng 2%.
Sản xuất công nghiệp khởi sắc sau nhiều tháng trì trệ
Sau nhiều tháng trì trệ, ngành công nghiệp Việt Nam đã có dấu hiệu khởi sắc trong quý đầu năm 2024. Giá trị tăng thêm toàn ngành ước tính tăng 6,18% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,98%.
Một số ngành công nghiệp cấp 2 ghi nhận mức tăng trưởng cao như sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 28,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 25,8%; sản xuất thiết bị điện tăng 24,8%; sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế tăng 21,7%; sản xuất vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 21,8%...
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý I/2024 tăng ở 54/63 địa phương trên cả nước. Một số địa phương có chỉ số IIP tăng cao như Quảng Ninh (tăng 39,9%), Phú Thọ (27,7%), Bắc Giang (24%), Thanh Hóa (18,6%) nhờ sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo và sản xuất, phân phối điện tăng mạnh.
Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ lực cũng ghi nhận mức tăng trưởng tích cực như thép thanh, góc (tăng 29,1%), thép cán (24,1%), phân hỗn hợp NPK (23,1%), xăng dầu (21,7%), phân Urê (16,9%).
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo tháng 3/2024 tăng 12,7% so với tháng trước và tăng 0,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung quý I/2024, chỉ số này tăng 8,2%. Chỉ số tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo cũng tăng nhưng tỷ lệ tồn kho bình quân chỉ 68,7%, thấp hơn cùng kỳ năm 2023.
Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/3/2024 tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 1,1% so với cùng kỳ năm ngoái, tín hiệu tích cực cho sự phục hồi của ngành công nghiệp.
Doanh nghiệp mới tăng nhưng số doanh nghiệp rút lui vẫn cao
Hoạt động đăng ký doanh nghiệp mới có nhiều tín hiệu tích cực. Trong tháng 3, cả nước có 14,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký gần 113,5 nghìn tỷ đồng và 104,4 nghìn lao động. So với tháng 2, các chỉ số này tăng lần lượt 64,3%, 68,7% và 105,2%. Tuy nhiên so với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp thành lập mới giảm 0,7%, vốn đăng ký giảm 22,1% nhưng số lao động tăng 12,7%.
Tính chung quý I/2024, Việt Nam có hơn 36,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn 332,2 nghìn tỷ đồng và gần 258,8 nghìn lao động đăng ký, lần lượt tăng 6,9%, 7% và 21,9% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân mỗi tháng có gần 20 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Tuy nhiên, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường vẫn còn cao. Trong quý I/2024, cả nước có hơn 53,4 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tăng 24,5% so với cùng kỳ năm trước. Có hơn 15,5 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 21,7% và 5,1 nghìn doanh nghiệp hoàn tất giải thể, tăng 10,1%. Bình quân mỗi tháng có gần 24,7 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Như vậy, trong quý I/2024, tổng số doanh nghiệp nước ta giảm 14,1 nghìn doanh nghiệp, bình quân mỗi tháng giảm 4,7 nghìn doanh nghiệp. Con số này cho thấy mặc dù môi trường kinh doanh đã được cải thiện nhưng doanh nghiệp vẫn đang gặp nhiều khó khăn.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp còn nhiều khó khăn
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh tại các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2024 cũng ghi nhận nhiều khó khăn mà doanh nghiệp phải đối mặt.
Chỉ có 22,1% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý IV/2023. 42,8% số doanh nghiệp cho rằng tình hình ổn định và tới 35,1% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Tỷ lệ đánh giá tình hình khó khăn của doanh nghiệp nhà nước còn cao hơn, lên tới 45,5%.
Về khối lượng sản xuất, chỉ có 22,3% doanh nghiệp đánh giá khối lượng tăng so với quý IV/2023, 38,9% doanh nghiệp đánh giá ổn định và 38,8% đánh giá khối lượng giảm.
Đơn đặt hàng của các doanh nghiệp trong quý I/2024 cũng giảm so với quý IV năm trước. Chỉ có 20,9% doanh nghiệp có đơn đặt hàng cao hơn, 42,6% ổn định và tới 36,5% doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm. Đơn hàng xuất khẩu cũng tương tự, với 19,1% doanh nghiệp có đơn hàng mới cao hơn, 47,3% ổn định và 33,6% giảm.
Hoạt động dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3/2024 tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 15,8%; doanh thu du lịch lữ hành tăng 66,1%. Tính chung quý I/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,2%.
Hoạt động vận tải hành khách và hàng hóa trong quý I/2024 đều tăng trưởng tích cực. Vận chuyển hành khách tăng 8,5% về vận chuyển và tăng 10,7% về luân chuyển. Vận chuyển hàng hóa tăng 13% về vận chuyển và tăng 11,2% về luân chuyển.
Hoạt động viễn thông nhìn chung ổn định với doanh thu theo giá hiện hành quý I/2024 ước đạt 89,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước.
Du lịch phục hồi mạnh mẽ
Nhờ các chính sách thị thực thuận lợi và các chương trình kích cầu du lịch, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam tháng 3/2024 đạt gần 1,6 triệu lượt người, tăng 78,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 4,6 triệu lượt người, tăng 72% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,2% so với quý I/2019 (năm chưa xảy ra dịch Covid-19).
Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát
Một trong những điểm nhấn quan trọng của báo cáo là sự ổn định về kinh tế vĩ mô và việc kiểm soát lạm phát. Trong quý I/2024, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chủ động, linh hoạt chính sách tiền tệ, góp phần ổn định thị trường ngoại tệ và đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ hợp pháp.
Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm và thị trường chứng khoán
Lãi suất huy động và cho vay tiếp tục xu hướng giảm, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Lãi suất tiền gửi bình quân bằng đồng Việt Nam ở mức 0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng, từ 2,2-3,1%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng, và dao động từ 5,3-7,5%/năm đối với các kỳ hạn khác. Lãi suất cho vay bình quân ở mức 7,7-9,9%/năm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong quý I/2024 ổn định với tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 53.295 tỷ đồng, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, doanh thu phí lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ giảm 10,9%, nhưng lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 9,8%.
Thị trường chứng khoán có khởi sắc với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu tăng 12,2%. Chỉ số VN-Index đạt 1.286,11 điểm, tăng 13,8% so với cuối năm 2023. Giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu quý I/2024 đạt 22.529 tỷ đồng/phiên, tăng 28,2% so với bình quân năm 2023. Trên thị trường trái phiếu, giá trị giao dịch bình quân đạt 9.698 tỷ đồng/phiên, tăng 48,8%.
Hoạt động tín dụng
Tính đến ngày 25/3/2024, huy động vốn của các tổ chức tín dụng giảm 0,76% so với cuối năm 2023, nhưng tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 0,26%. Tín dụng tiếp tục được định hướng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và động lực tăng trưởng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của người dân và doanh nghiệp.
Về tín dụng chính sách xã hội, đến ngày 25/3/2024, tổng số vốn giải ngân các chương trình tín dụng chính sách xã hội đạt 26.333 tỷ đồng, với hơn 540 nghìn lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác vay vốn trong năm. Tổng dư nợ tín dụng chính sách đạt 338.642 tỷ đồng, tăng 2% so với năm 2023.
Lạm phát được kiểm soát
Một trong những thành công nổi bật trong quý I/2024 là việc kiểm soát lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) quý I/2024 tăng 3,77% so với cùng kỳ năm 2023, trong khi lạm phát cơ bản tăng 2,81%.
Mặc dù có một số nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng giá như giáo dục (tăng 9,02%), thuốc và dịch vụ y tế (tăng 6,51%), nhà ở và vật liệu xây dựng (tăng 5,4%), và hàng ăn và dịch vụ ăn uống (tăng 3,53%), nhưng nhìn chung lạm phát vẫn được kiểm soát tốt. Điều này được thể hiện qua mức tăng thấp hơn của lạm phát cơ bản so với CPI chung.
Đầu tư và xuất nhập khẩu tăng trưởng khả quan
Quý I/2024 cũng chứng kiến những tín hiệu tích cực trong lĩnh vực đầu tư và xuất nhập khẩu, phản ánh sự phục hồi của hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Đầu tư phát triển
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trong quý I/2024 tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, đạt 613,9 nghìn tỷ đồng. Trong đó, vốn khu vực Nhà nước tăng 4,9%, khu vực ngoài Nhà nước tăng 4,2%, và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8,9%.
Đáng chú ý, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện tại Việt Nam trong quý I/2024 ước đạt 4,63 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước và đạt mức cao nhất trong ba tháng đầu năm của các năm từ 2020 đến nay.
Về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, trong quý I/2024 có 22 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 28,7 triệu USD.
Xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
Trong quý I/2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 178,04 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 17% và nhập khẩu tăng 13,9%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 8,08 tỷ USD.
Về xuất khẩu hàng hóa, có 16 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 82,1% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, các mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại và linh kiện; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; và dệt may đều đạt giá trị xuất khẩu trên 5 tỷ USD.
Về nhập khẩu hàng hóa, có 17 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm 76,1% tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong đó, điện tử, máy tính và linh kiện; và máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đều đạt giá trị nhập khẩu trên 5 tỷ USD.
Về xuất, nhập khẩu dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ quý I/2024 ước đạt 5,67 tỷ USD, tăng 24,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch chiếm 55,5%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước đạt 8 tỷ USD, tăng 26,8%.
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Báo cáo cũng đưa ra những con số về tình hình thu, chi ngân sách Nhà nước trong quý I/2024.
Về thu ngân sách, tổng thu ngân sách Nhà nước quý I/2024 ước đạt 539,5 nghìn tỷ đồng, bằng 31,7% dự toán năm và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, thu nội địa tăng 13,5%, thu từ dầu thô tăng 2,1%, nhưng thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu giảm 12,5%.
Về chi ngân sách, tổng chi ngân sách Nhà nước quý I/2024 ước đạt 393,5 nghìn tỷ đồng, bằng 18,6% dự toán năm và tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chi thường xuyên tăng 3,4%, chi đầu tư phát triển tăng 22,8%, và chi trả nợ lãi tăng 16,6%.
Thách thức và triển vọng
Mặc dù có nhiều điểm sáng, nhưng nền kinh tế Việt Nam trong quý I/2024 vẫn phải đối mặt với một số thách thức.
Trên thị trường quốc tế, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục gay gắt, xung đột quân sự kéo dài, và nhiều quốc gia duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt khiến tổng cầu yếu và kinh tế thế giới tăng trưởng chậm. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam.
Trong nước, mặc dù hoạt động sản xuất hàng hóa, dịch vụ đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, nhưng giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào tăng cao khiến áp lực lạm phát vẫn còn tiềm ẩn.
Tuy nhiên, với những nỗ lực trong việc điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa linh hoạt và hiệu quả, cùng với sự phục hồi của hoạt động sản xuất kinh doanh, nền kinh tế Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng ổn định trong các quý tới. Sự hồi phục của thị trường chứng khoán và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng sẽ là những động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế năm 2024.
Với những thành tựu đạt được trong quý I/2024, cùng với những định hướng và giải pháp phù hợp, nền kinh tế Việt Nam đang khẳng định sức sống vượt qua khó khăn và tiếp tục hướng tới một tương lai phát triển bền vững.
Nguồn dữ liệu: tổng hợp từ Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2024 của GSO